Nhà Nguyễn cho người vẽ bản đồ Hoàng Sa
- Hoàng Sa là một quần đảo tiền tiêu nằm ở Biển Đông. Trong thời kỳ trị vì đất nước, nhà Nguyễn luôn quan tâm đến quần đảo này và xem như là một nhân tố quan trọng trong vấn đề bảo vệ chủ quyền của vương triều.
Hàng năm triều đình vẫn phái đội Hoàng Sa đi tuần tiễu trên biển. Cái nôi của đội Hoàng Sa là những người ở xã An Vĩnh (Quảng Ngãi). Tuy nhiên, triều đình vẫn cho mộ những người nơi khác để bổ sung vào hải đội Hoàng Sa.
Bản dập mộc bản phản ánh triều đình sai Võ Văn Phú mộ dân ngoại tịch lập làm đội Hoàng SaMộc bản triều Nguyễn sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ”, quyển 22, trang 2, năm Gia Long thứ 2 (1803) chép: “Tháng 7, lấy Cai cơ Võ Văn Phú làm Thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm đội Hoàng Sa”.
Một trong những việc mà vương triều Nguyễn rất chú trọng là việc vẽ bản đồ Hoàng Sa. Không những đội Hoàng Sa có nhiệm vụ này mà ngay cả thuyền buôn của các nước nếu vẽ được bản đồ Hoàng Sa cũng được triều đình trọng thưởng.
Sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ”, quyển 55, năm Gia Long thứ 16 (1817) chép: “Tháng 6, thuyền Mã Cao đậu Đà Nẵng, đem địa đồ đảo Hoàng Sa dâng lên. Thưởng cho 20 lạng bạc”.
Trong những lần ra Hoàng Sa, hải đội Hoàng Sa ngoài việc vẽ bản đồ, thăm dò đường biển... còn có nhiệm vụ khai thác những sản vật tại Hoàng Sa về đem dâng lên triều đình và báo cáo tình hình tại Hoàng Sa.
Bản dập mộc bản phản ánh đội Hoàng Sa của Trương Phúc Sĩ đem những sản vật khai thác ở Hoàng Sa đem dâng triều đìnhMộc bản triều Nguyễn sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 122, trang 23, năm Minh Mạng thứ 15 (1814) chép: “Tháng 3, sai Giám thành đội trưởng Trương Phúc Sĩ cùng thủy quân hơn 20 người đi thuyền đến đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vẽ bản đồ. Khi trở về, vua hỏi về những thứ sản vật ở đấy, Sĩ tâu: Nơi này là bãi cát giữa bể, man mác không bờ, có nhiều thuyền các nước qua lại. Nhân đem dâng vua những thứ chim, cá, ba ba, ốc, sò ngao, đã bắt được ở nơi đó, đều là những vật lạ, ít thấy”. Vua cho trọng thưởng.
Từ việc đội Hoàng Sa phải trình tâu và dâng những sản vật lên triều đình sau những lần công cán trở về cho thấy rằng vương triều Nguyễn có chủ quyền rõ ràng với quần đảo này. Việc phòng thủ cũng như khai thác sản vật ở Hoàng Sa cũng đã chứng minh đó không phải là việc riêng của bộ phận nào, mà đó là việc chung của cả vương triều.
Chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam đối với Hoàng Sa-Trường Sa
Sang triều Nguyễn từ năm 1802 đến 1909, năm bắt đầu bị tranh chấp, có rất nhiều tài liệu chính sử, sách điển chế, sách địa lý minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
1. Chính sử, sách điển chế, sách địa lý ghi rõ việc xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa:
Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789) do các sử thần thời Lê - Trịnh biên soạn theo lệnh của Trịnh Sâm năm 1775, có đoạn viết: "Ngoài biển xã An Vĩnh có nhiều đảo lớn gồm hơn 130 đảo, cách nhau một ngày đi thuyền, hoặc vài canh giờ. Trên đảo có chỗ có suối nước ngọt. Ở bãi cát lại có ốc vằn, tục gọi là ốc tai voi, ốc xà cừ, ốc hương và hải trùng, hải sâm, đồi mồi... Đặt đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người xã An Vĩnh xung vào đội ấy, cắt lượt nhau đi thuyền đến đảo mò tìm sản vật. Mỗi năm cứ tháng ba ra đi, mang lương ăn sáu tháng, đi thuyền ra biển ba ngày ba đêm mới đến đảo. Ở đấy tha hồ tìm nhặt, được sản vật gì, bao nhiêu, đến kỳ tháng tám thuyền cửa Eo, đem đến Phú Xuân nộp. Trong khoảng ấy cũng có người mò được tiền bạc, chì, thiếc, nồi đồng, súng, khí giới, ngà voi, bát bằng đá...".
Nội dung trên không có gì mới so với nội dung của Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn, song có giá trị lịch sử được ghi vào chính sử thời Lê - Trịnh. Phủ Biên tạp lục quyển 2 của Lê Quý Đôn mô tả kỹ càng nhất về Hoàng Sa, đoạn văn đề cập đến việc Chúa Nguyễn xác lập chủ quyền của Đại Việt tại Hoàng Sa bằng hoạt động của đội dân binh Hoàng Sa và đội Bắc Hải, như: "Ở ngoài núi Cù Lao Ré có đảo Đại Trường Sa ngày trước, nơi đây thường sản xuất nhiều hải vật chở đi bán các nơi, nên Nhà nước có thiết lập một đội Hoàng Sa để thu nhận các hải vật. Người ta phải đi ba ngày đêm mới đến được đảo Đại Trường Sa ấy..." (tờ 78b - 79a) hoặc: "Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng hai nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng năm chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển ba ngày ba đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu, như gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên, cũng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng tám thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong, mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về. Lượm được nhiều ít không nhất định, cũng có khi về người không. Tôi đã xem sổ của cai đội cũ là Thuyên đức hầu biên rằng: Năm Nhâm Ngọ lượm được 30 hốt bạc; năm Giáp Thân được 5.100 cân thiếc; năm Ất Dậu được 126 hốt bạc; từ năm Kỷ Sửu đến năm Quý Tỵ, 5 năm ấy, mỗi năm chỉ được mấy tấm đồi mồi, hải ba. Cũng có năm được khối thiếc, bát sứ, và hai khẩu súng đồng mà thôi...
Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quý ít khi lấy được...
Sang triều Nguyễn từ năm 1802 đến 1909, năm bắt đầu bị tranh chấp, có rất nhiều tài liệu chính sử, sách điển chế, sách địa lý minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
- Dư địa chí (1821) của Phan Huy Chú - Nhà nghiên cứu bách khoa của Việt Nam đã viết cuốn này trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí. Lịch triều hiến chương loại chí là một công trình biên khảo bách khoa lịch sử lớn gồm 49 quyển, ghi chép đủ mọi phép tắc của các triều đại Việt Nam. Chính Dư địa chí quyển 5, ở phần Quảng Nam, có nói đến phủ Tư Nghĩa. Hầu hết nội dung nói về phủ Tư Nghĩa là nói đến Hoàng Sa. Chứng tỏ Hoàng Sa rất quan yếu đối với phủ Tư Nghĩa hồi bấy giờ. Qua nội dung Phan Huy Chú đã viết, thấy rất rõ ông đã sử dụng sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, đã tóm gọn nhiều nội dung của sách này. Ngoài tả cảnh vật của Hoàng Sa, ông cho biết: "Tiền Vương lịch triều (các chúa Nguyễn) đặt đội Hoàng Sa 70 tên cũng lấy dân An Vĩnh luân phiên sung vào". Song có dị bản đã chép nhầm tháng giêng thay vì tháng ba, như Phủ biên tạp lục cho biết hằng năm "từ tháng ba đội Hoàng Sa đi làm nhiệm vụ cũng ba ngày ba đêm bằng năm chiếc tiểu điếu thuyền đến Hoàng Sa rồi cũng tháng tám về đến cửa Eo tới thành Phú Xuân và cũng mang theo lương thực cho sáu tháng".
- Hoàng Việt dư địa chí (1833) không đề tên tác giả, thường gọi là cuốn Địa dư Minh Mạng được khắc in vào năm Minh Mạng thứ 14 (1833), sau đó được tái khắc in nhiều lần. Người ta thấy nội dung có nhiều điều giống Dư địa chí, song đôi chỗ có khác nhau về từ hoặc thêm, bớt và nhất là cách trình bày. Thay vì Dư địa chí gồm năm quyển, thì Hoàng Việt địa dư chí chỉ có hai quyển với cấu trúc khác nhau.
- Đại Nam thực lục phần tiền biên quyển 10, soạn năm 1821 khắc in năm 1844 của Quốc sử quán triều Nguyễn tiếp tục khẳng định việc xác lập chủ quyền của Đại Việt cũng bằng hoạt động của đội quân Hoàng Sa và đội Bắc Hải.
- Đại Nam thực lục chính biên (đệ nhất kỷ khắc in năm 1848, đệ nhị kỷ khắc in xong năm 1864, đệ tam kỷ khắc in xong năm 1879) của Quốc sử quán triều Nguyễn có cả thảy 11 đoạn viết về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với nhiều nội dung mới, phong phú, rất cụ thể về sự tiếp tục xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo này.
- Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (1851) có đoạn văn đề cập đến việc dựng miếu ở Hoàng Sa trong quyển 207, và đoạn văn trong bộ sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ quyển 221 của Nội các triều Nguyễn có chép: "Bộ Công tâu rằng: Hoàng Sa ngoài biển rất là hiểm yếu. Hàng năm cần phải đi khám dò khắp chỗ thuộc đường bể. Lại từ năm nay trở về sau, mỗi khi hạ tuần tháng giêng, chiếu theo lệ ấy mà làm".
- Trong bộ sách Đại Nam nhất thống chí (soạn xong năm 1882, năm 1910 soạn lần hai và khắc in) cũng của Quốc sử quán triều Nguyễn đã xác định Hoàng Sa thuộc về tỉnh Quảng Ngãi và tiếp tục khẳng định hoạt động đội quân Hoàng Sa và đội quân Bắc Hải do đội Hoàng Sa kiêm quản.
- Trong quyển III Quốc triều chính biên toát yếu của Quốc sử quán triều Nguyễn, đời Vua Minh Mạng, có ba đoạn văn liên quan đến việc xác lập chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa.
Ngoài ra trong các bản đồ của Việt Nam như Đại Nam thống nhất toàn đồ có vẽ Hoàng Sa và Vạn lý Trường Sa trong cương vực của Việt Nam...
2. Qua châu bản, văn bản chính quyền từ Trung ương đến địa phương ghi rõ việc xác lập và hành xử chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa:
Tài liệu rất quý giá là châu bản triều Nguyễn (thế kỷ XIX), là các văn bản của triều đình nhà Nguyễn hiện đang được lưu trữ tại Kho lưu trữ Trung ương 1 ở Hà Nội. Ở đó người ta tìm thấy những bản tấu, phúc tấu của các đình thần các bộ như bộ Công, và các cơ quan khác hay những Dụ của các nhà vua về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn như việc vãng thám, đo đạc, vẽ họa đồ Hoàng Sa, cắm cột mốc... Chẳng hạn như Dụ ngày 18 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 16 (1835) trong Châu bản tập Minh Mạng số 54, trang 92 có đoạn viết Vua Minh Mạng ra chỉ dụ giao cho Bộ Công phạt cai đội Hoàng Sa Phạm Văn Nguyên 80 trượng vì tội trì hoãn thời gian công tác hay phạt 80 trượng giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiệm, Nguyễn Văn Hoằng chưa chu tất việc vẽ bản đồ Hoàng Sa. Trong khi đó lại thưởng dân binh đội Hoàng Sa Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh, mỗi người một quan tiền vì đã có công hướng dẫn hải trình của thủy quân đi Hoàng Sa. Hoặc như Dụ ngày 13 tháng 7 Minh Mạng 18 (1837) trong tập Châu bản Minh Mạng 57, trang 245 có đoạn cho biết trước có phái thủy sư, giám thành, binh dân hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định đi Hoàng Sa đo đạc, cắm mốc, vẽ họa đồ, trừ bọn Phạm Văn Biện gồm bốn tên can tội đã có chỉ phạt trượng, còn binh dân đi theo lặn lội biển cả cực khổ, thưởng mỗi tên binh đinh một tháng lương dân phu mỗi tên hai quan tiền.
Cùng với đó còn có Phúc tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 17 (1836 ) trong tập Châu bản Minh Mạng 55 trang 336, ghi lời châu phê của Vua Minh Mạng: "Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc, khắc sâu hàng chữ: "Năm Bính Thân (Minh Mạng thứ 17), họ tên cai đội thủy quân phụng mệnh đi đo đạc, cắm mốc ở Hoàng Sa để lưu dấu". Vua cũng phê rằng thuyền đi đâu, phải cắm cột mốc đến đó để lưu dấu. Phúc tấu cũng còn ghi chánh đội trưởng Phạm Hữu Nhật được phái từ Thuận An vào Quảng Ngãi để đi công tác Hoàng Sa. Hoặc Tấu của tỉnh Quảng Ngãi ngày 19 tháng 7 Minh Mạng 19 (1838) xin miễn thuế cho hai chiếc "bổn chinh thuyền". Trong tập Châu bản Minh Mạng số 64 trang 146 có đoạn viết rằng ngày 19 tháng 7 Minh Mạng thứ 19 (1838): "Xin chiếu lệ miễn thuế năm nay cho hai chiếc "bổn chinh thuyền" đã đưa binh dân đến Hoàng Sa đo đạc giáp vòng từ hạ tuần tháng 3 tới hạ tuần tháng 6, hoàn tất công vụ nay đã trở về".
Gần đây, một gia đình ở xã An Hải, huyện đảo Lý Sơn đã trao tặng Bộ Ngoại giao một văn bản là giấy lệnh viết trên hai tờ (bốn trang), đây là tờ tư và tờ lệnh công tác Hoàng Sa của quan Bố chánh, Án sát tỉnh Quảng Ngãi (triều vua Minh Mạng vào năm 1834), ghi rõ ông Võ Văn Hùng đã tuyển chọn một bọn gồm 10 người, đứng đầu là Đặng Văn Siểm, người thôn Hoa Diêm, phường An Hải huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi có thể đảm nhận công việc lái thuyền. Nhân đấy mà cấp cho bằng này để đi một thuyền dẫn các thủy thủ trên thuyền theo quân của phái viên và Võ Văn Hùng cùng đến Hoàng Sa thi hành việc công.
Tại Huế cũng mới phát hiện tờ Tâu số 664 ngày 27 tháng 12 năm Bảo Đại thứ 13 (15-2-1939) của Phạm Quỳnh, Tổng lý Ngự tiền Văn phòng Nội các thời Minh Mạng, tâu xin Vua Bảo Đại phê chuẩn thưởng tặng cho người có công phòng thủ Hoàng Sa, thể hiện sự thực thi chủ quyền liên tục tại Hoàng Sa (Paracel) suốt triều Nguyễn từ vua đầu tiên Gia Long đến vua cuối cùng Bảo Đại. Đây là tờ Châu bản thời Bảo Đại, đánh máy bằng chữ quốc ngữ, với lời phê: "Chuẩn y" và chữ ký tắt BĐ (Bảo Đại) đều bằng bút chì mầu đỏ, khổ giấy cỡ 21,5x31,0cm.
3. Nhiều tư liệu phương Tây ghi rõ việc xác lập và hành xử chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa:
Có thể nêu ra đây một số tài liệu chính như:
- Nhật ký trên tàu Amphitrite (năm 1701) xác nhận Paracels là một quần đảo thuộc về nước An Nam.
- Hồi ức về Nam Kỳ của Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825) viết vào các năm cuối đời Gia Long (hoàn tất năm 1820) đã khẳng định năm 1816 Vua Gia Long đã xác lập chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Paracel.
- Thế giới, lịch sử và mô tả về tất cả các dân tộc cùng tôn giáo, cách cư xử và tập quán của họ của Giám mục Taberd xuất bản năm 1833 cho rằng Hoàng đế Gia Long chính thức khẳng định chủ quyền trên đảo Hoàng Sa năm 1816.
- Tạp chí Hiệp hội châu Á Bengal quyển VI (The Journal of the Asiatic Society of Bengal, Vol VI) đăng bài của Giám mục Taberd xác nhận Vua Gia Long chính thức giữ chủ quyền quần đảo Paracel.
- Tạp chí Hiệp hội Địa lý Luân Đôn năm 1849 (The Journal of Geographycal Society of London) đăng bài của GutzLaff ghi nhận chính quyền An Nam lập ra những trưng thuyền và một trại quân nhỏ để thu thuế ở Paracel...
Ngoài ra, gần đây người ta còn phát hiện gần trăm đầu sách địa lý, bản đồ của phương Tây ghi rõ Paracel thuộc "Vương quốc An Nam", được viết bằng các thứ tiếng Ý, Pháp, Đức, Anh, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan... Có thể kể các cuốn tiêu biểu như: Biagio Soria với Vũ trụ học lịch sử, thiên văn học và vật lý quyển VI (La cosmografia istorica, astronomica e fisica, tomeVI - Napoli, 1828), Adriano Balbi & Malta Brun... với Bản tóm tắt mới về địa lý (Nuovo Compendio di geografia - Milano, 1865); Wilhelm Hoffmann với Mô tả về Trái đất (Beschreibung der erde - Stuttgart, 1832); Carl Ritter với Tên và quyền sở hữu, sách Địa lý châu Á của Carl Ritter (Namen und Sach Derzeichnik zu Carl Ritter's Erdkunde von usien - Berlin, 1841); Thomas Keith với Hệ thống địa lý (A system of geographia - London, 1826); cùng các cuốn sách khác như: Từ điển địa lý mô tả tất cả các khu vực trên thế giới (Dictionnaire géographique universel contenant la description de tous les lieux du globe quyển VII - Paris 1830); Những lá thư khai trí về châu Á, châu Phi và châu Mỹ quyển 3 (Lettres édifiantes et curieuses concernant l'Asie, l'Afrique etl'Amérique, Tome 3 - Paris, 1843); Phần hiện đại của lịch sử thế giới quyển 7 (The modern part of an universal history Vol 7 - London 1759)...
Đó là chưa kể chính những tài liệu của Trung Quốc như các bản đồ cổ Trung Quốc do chính người Trung Quốc vẽ từ năm 1909 trở về trước đều minh chứng Tây Sa và Nam Sa chưa thuộc về Trung Quốc. Tất cả các bản đồ cổ của Trung Quốc do người Trung Quốc vẽ không có bản đồ nào có ghi các quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Tất cả các bản đồ ấy đều xác định đảo Hải Nam là cực nam của biên giới phía nam của Trung Quốc. Sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa tháng 1 năm 1974, nhiều đoàn khảo cổ Trung Quốc đến các đảo thuộc quần đảo này và gọi là "phát hiện" nhằm nhiều cổ vật như tiền cổ, đồ sứ, đồ đá chạm trổ trên các hòn đảo này, song đều không có giá trị gì để minh xác chủ quyền Trung Quốc, trái lại họ lại phát hiện ở mặt bắc ngôi miếu Hoàng Sa tự ở đảo Vĩnh Hưng, tức đảo Phú Lâm (Ile Boiée), lại là bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam.
4. Người phương Tây đã vẽ bản đồ xác định rất rõ "Paracel tức Hoàng Sa" và ghi chú Hoàng Sa thuộc xứ Đàng Trong của Vương quốc An Nam tức Việt Nam:
Ngoài bản đồ An Nam Đại quốc họa đồ của Giám mục Taberd, người ta còn thấy rất nhiều bản đồ do phương Tây vẽ từ thế kỷ 18, có ghi chú rõ Paracel thuộc Vương quốc An Nam hay Đàng Trong (Cochinchine).
An Nam Đại quốc họa đồ (bản đồ 1) dài 80,5 cm rộng 44 cm của Giám mục Taberd xuất bản năm 1838 khẳng định "Paracel seu Cát Vàng" (seu, trong tiếng La tinh có nghĩa "hoặc" hay "là") Paracel hay là Cát Vàng tức Hoàng Sa, nằm trong cuốn từ điển Latinh - Annam ghi rõ ở tọa độ địa lý hiện nay và nằm trong vùng biển của Việt Nam.
Tôi là người học sử, nghiên cứu sử, thấy rất rõ truyền thống ngàn năm bất khuất kiên cường của dân tộc Việt Nam, và hơn 35 năm nay không ít lần tôi đã rơi nước mắt vì Hoàng Sa khi bị Trung Quốc, từ việc vốn coi Hoàng Sa là đất vô chủ rồi lại cho là đất của mình, để năm 1974 đã dùng võ lực đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa - một hành động trái ngược với sự thật lịch sử và lẽ phải thông thường. Hoàng Sa là cổ họng, yết hầu của Việt Nam. Sau một đêm trằn trọc khó ngủ, tôi viết bài này và mong những người Việt Nam ở trong và ngoài nước cùng nhau dịch ra tất cả các thứ tiếng, quảng bá cho mọi người kể cả người dân Trung Quốc biết sự thật lịch sử và mỗi người phải có một kế hoạch nhỏ, cùng nhau xây dựng nội lực đất nước hùng cường bảo vệ chủ quyền đất nước yêu dấu.
Nhà Nguyễn đề phòng láng giềng nhòm ngó chủ quyền biển đảo
- Theo sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 218, vua Minh Mạng chú trọng phòng thủ biển đảo để "không những người Tây dương cách trở xa xôi, không dám trông thẳng vào nước ta, mà nước mạnh láng giềng tiếp giáp cõi đất cũng không dám lại manh tâm nhòm ngó nữa”.
Mộc bản triều Nguyễn sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 181, năm Minh Mạng thứ 18 (1837) có ghi: “Vua nghỉ ở biển Hà Tiên nhiều đảo lớn đảo nhỏ, thuyền giặc Đồ Bà thường ẩn nấp ở đấy để đón cướp, sai quan tỉnh phái người xét xem có bao nhiêu đảo, tên đảo là gì, có dân cư hay không? Cùng đường bộ cách nhau xa hay gần và hình thế thế nào, vẽ đồ bản nói rõ. Lại chỗ nào nên đặt đồn canh giữ, chỗ nào nên phái quân đón phục, tính bàn tâu lên”.
Các bản dập mộc bản phản ánh vua Minh Mạng cho quân dò xét và vẽ bản đồ đảo Phú Quốc.
Bên cạnh việc cho người tiến hành khảo sát chi tiết các đảo, công tác củng cố, phòng thủ đảo Phú Quốc thêm vững chắc cũng được triều đình đem ra luận bàn trong những buổi thiết triều. Nhiều tài liệu Mộc bản triều Nguyễn đang lưu giữ trong Trung tâm lưu trữ quốc gia IV tại Đà Lạt đã đề cập rất rõ vấn đề này.
Cụ thể, Mộc bản triều Nguyễn sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 188, năm Minh Mạng thứ 19 (1838) có ghi: “Tháng giêng, dời làm đồn Phú Quốc ở Hà Tiên ra nơi khác và làm thêm đồn Hàm Ninh. Trước đây, vua nghĩ Phú Quốc là chỗ bờ biển quan yếu, 12 xã thôn sở tại, địa thế hơi rộng, sai quan tỉnh ấy xem chỗ hình thế đẹp, cho làm đồn ở phận thôn An Thái để ngăn ngừa giặc biển. Ngày trước xây dựng chưa xong, bỗng ở Nam Kỳ có loạn, dân cư phiêu tán, mới thành rừng hoang.
Đến nay Bố chính Lê Văn Trung thân hành đi khám lại, dâng sớ nói: địa hình đồn cũ, vốn là hiểm yếu, nhưng mặt phía sau một dải suối cạn, mùa mưa mới có nước, mà cỏ cây ở trong rừng trôi ngập xuống đấy, uống vào sinh nhiều bệnh, thật không phải nơi đất lành để đóng quân, duy có xứ Bình Sa thôn Phú Đông, phía trước giáp cửa biển Dương Đông; phía sau liền với miền núi; bên tả có gò Sa; bên hữu có sông Dương Đà, lại nhiều nước ngọt có thể múc uống được, dân cư nối liền, thuyền buôn tụ hội, xin nên dời làm ở đấy, vẫn gọi là đồn Phú Quốc”.
Bản dập mộc bản phản ánh việc triều đình cho đặt đồn Phú Quốc.Triều Nguyễn mà tiêu biểu là thời kỳ vua Minh Mạng trị vì, lãnh thổ biển đảo luôn được quan tâm một cách sát sao, được coi là một phần quan trọng trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của vương triều. Không chỉ có đảo Phú Quốc mà các cửa biển cũng được triều đình quan tâm như một sự khẳng định chủ quyền của vương triều trước các ngoại bang đang có ý định dòm ngó.
Mộc bản triều Nguyễn sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 218, năm Minh Mạng thứ 11 (1840) có ghi: “Tháng 11. Nay cửa biển Đà Nẵng ở Quảng Nam, đã đặt thêm pháo đài Phòng Hải; cửa biển Thi Nại ở Bình Định, lại mới xây pháo đài Hổ Cơ, để giữ chỗ hiểm yếu; còn đảo Côn Lôn ở Vĩnh Long; đảo Phú Quốc ở Hà Tiên, đều có đặt đồn bảo chia phái lính thú tuần phòng, để răn ngừa sự lo bất ngờ. Như thế thì ta ngăn giữ bờ biển đã có cái thế đáng sợ mà không thể xâm phạm được. Việc võ bị mà chỉnh đốn, thì người ngoài trông thấy cũng đủ tiêu tan lòng tà. Không những người Tây dương cách trở xa xôi, không dám trông thẳng vào nước ta, mà nước mạnh láng giềng tiếp giáp cõi đất cũng không dám lại manh tâm nhòm ngó nữa”.
Trong 143 năm tồn tại (1802 – 1945), vương triều Nguyễn đã làm nhiều việc để bảo vệ chủ quyền biển đảo. Trong 13 vua trị vì, có lẽ Minh Mạng là vị vua đi tiên phong trong những việc làm khẳng định chủ quyền biển đảo. Với tư chất của một ông vua anh minh, Minh Mạng đã làm tốt việc triều chính, trong đó có việc giữ gìn biển đảo giúp vương triều Nguyễn khẳng định vị thế của mình trong cái nhìn khâm phục của các nước lân bang.